Nước - Vấn Đề Khẩn Cấp Toàn Cầu

  • Thứ bảy, 07:12 Ngày 16/03/2024
  • Tác giả: Ferdinand de la Iglesia Viguiristi SJ & Tebaldo Vinciguerra

    Mặc dù hành tinh của chúng ta được gọi là “Trái đất” nhưng 3/4 bề mặt của nó là nước. Hầu hết nước đều có vị mặn với gần 98% được tạo thành từ biển và đại dương. Chỉ 2,4 % bao gồm nước ngọt, được tìm thấy trong sông băng, sông ngòi, nguồn nước ngầm và bầu khí quyển. Trong số này, chỉ có 0,025% nước uống có thể tiếp cận dễ dàng. Tỷ lệ phần trăm vốn đã nhỏ này lại đang bị thu hẹp hơn nữa, như Tổ chức Khí tượng Thế giới (WMO) đã chỉ ra. [1] Gần đây, các con sông như Niger, Volta, Nile và Po có tốc độ dòng chảy thấp hơn bình thường. Trong thực tế, việc mực nước sông bị hạ thấp đang trở nên thường xuyên hơn trên toàn hành tinh, và theo nghiên cứu gần đây được công bố trên tạp chí Khoa học , điều này chỉ có thể được giải thích là do tác động của biến đổi khí hậu: “Ảnh hưởng của con người đến khí hậu đã ảnh hưởng đến mức độ dòng chảy sông thấp, trung bình và cao trên quy mô toàn cầu.” [2]

    Tác động của biến đổi khí hậu thường được nhìn thấy qua nước. Nó làm tăng sự biến đổi của chu trình thủy văn, gây ra các hiện tượng cực đoan, làm giảm lượng nước sẵn có trong tương lai và ảnh hưởng đến chất lượng nước. Đổi lại, toàn bộ hậu quả này đe dọa sự phát triển bền vững, đa dạng sinh học và lợi ích của quyền con người đối với nước sạch và vệ sinh trên toàn thế giới.

    Trong bài viết này, chúng ta sẽ suy tư về vấn đề quan trọng này, với nhiều khía cạnh kỹ thuật và các lựa chọn chính sách, đề cập cụ thể tầm nhìn của Học thuyết Xã hội của Giáo hội.

    Các vấn đề của thế giới qui tụ và được phản ánh trong các vấn đề về nước

    Lũ lụt, hạn hán, nắng nóng và hỏa hoạn đang tàn phá nhiều nơi trên thế giới đang ngày càng gây căng thẳng cho người dân, đặc biệt là những người nghèo nhất, gây ra những tác động sâu rộng đến sự ổn định kinh tế, xã hội và chính trị. Ở Đông Phi, đợt hạn hán tàn khốc kéo dài 4 năm đã phá hủy sinh kế và khiến hơn 20 triệu người có nguy cơ chết đói. Somalia, sau nhiều năm không có mưa, hiện đang phải hứng chịu lũ lụt thảm khốc do biến đổi khí hậu gây ra. Theo Chương trình Lương thực Thế giới (WPF), một phần tư dân số của nước này sẽ phải đối mặt với “nạn đói ở mức nghiêm trọng hoặc tệ hơn” [3] nếu họ không nhận được viện trợ quốc tế. Tại Pakistan, trận lũ lụt năm 2022 đã nhấn chìm 1/3 đất nước, diện tích tương đương diện tích Vương quốc Anh, khiến ít nhất 1.500 người thiệt mạng và phá hủy 45% mùa màng. [4] Ai cũng biết nước là sự sống, nước cứu sống nhưng cũng có thể phá huỷ.

    Tại Trung Quốc, một đợt nắng nóng chưa từng có đã gây ra tình trạng thiếu nước nghiêm trọng tại các khu vực cung cấp 1/3 sản lượng gạo quốc gia. Các ví dụ có thể được nhân lên. Lưu vực sông Amazon đang phải đối mặt với tình trạng khan hiếm nước chưa từng có. Hạn hán và hỏa hoạn ở Mỹ và châu Âu cũng như lũ lụt và hạn hán nghiêm trọng ở Ấn Độ đã làm giảm sản lượng ngũ cốc và xuất khẩu lương thực toàn cầu. Sản xuất lương thực của nhân loại đòi hỏi lượng nước lớn và ổn định. Tác động tổng hợp của các điều kiện khắc nghiệt hiện nay là chưa từng có và vượt quá khả năng ứng phó của các nhà hoạch định chính sách ở cấp quốc gia.

    Nước là nguồn tài nguyên quan trọng và là mối quan tâm. Lượng nước ngọt có sẵn cho mỗi người mỗi năm trên toàn cầu đang suy giảm ở nhiều nơi, do ô nhiễm và mức tiêu thụ quá mức cần thiết nhằm tái tạo tài nguyên này. Trong thế kỷ qua, mức tiêu thụ nước đã tăng lên trên toàn cầu với tỷ lệ dân số cao hơn gấp đôi và ngày càng nhiều khu vực đạt đến ngưỡng mà nguồn cung cấp nước không thể được cung cấp bền vững. Sự thay đổi và các mô hình phát triển kinh tế không bền vững đang gây áp lực chưa từng có đối với nguồn nước có thể tái tạo nhưng còn hạn chế, đặc biệt là ở các vùng khô cằn. Đến năm 2025, người ta dự đoán rằng 1,8 tỷ người sẽ sống ở các quốc gia hoặc khu vực khan hiếm nước “tuyệt đối” (<500 m3 mỗi năm bình quân đầu người) và 2/3 dân số thế giới có thể rơi vào tình trạng “căng thẳng” ( từ 500 đến 1.000 m3 / người/năm). Tình hình có thể trở nên tồi tệ hơn khi sự phát triển nhanh chóng của các khu vực đô thị gây áp lực lớn lên nguồn nước gần đó. [5]

    Các vấn đề liên quan đến nước - thiếu hụt hoặc lũ lụt, nước không an toàn để uống - đã là nguyên nhân mãn tính gây mất an ninh lương thực và sức khỏe trong toàn khu vực. Theo dữ liệu mới nhất, vào năm 2020, 26% dân số thế giới (2 tỷ người) không được tiếp cận với nguồn nước uống được quản lý an toàn và khoảng 46% (3,6 tỷ người) thiếu điều kiện vệ sinh ở mức có thể chấp nhận. [6] Thiếu nước là một dấu hiệu rõ ràng của tình trạng nghèo đói. Ở một số quốc gia ở Châu Phi và Châu Á, phụ nữ và trẻ em gái bị ảnh hưởng đặc biệt vì người ta ước tính rằng họ phải mất khoảng 200 triệu giờ để đi lấy nước cho gia đình mình, điều mà UNICEF gọi là “sự lãng phí thời gian khổng lồ”. [7] Nước thường xuyên bị ô nhiễm và gây nguy hiểm cho sức khỏe. Bệnh tiêu chảy, nguyên nhân chủ yếu do thiếu nước sạch và vệ sinh, đã giết chết 2.195 trẻ em mỗi ngày (nhiều hơn cả bệnh AIDS, sốt rét và sởi cộng lại). [8] Câu hỏi quan trọng là: Liệu chúng ta có thể đảm bảo rằng trong tương lai sẽ có nước cho mọi người dùng theo nhu cầu không?

    Cuộc khủng hoảng nước toàn cầu đòi hỏi cách 'quản trị' mới

    Cách chúng ta sản xuất và tiêu thụ hàng hóa đang gây nguy hiểm cho nguồn nước. Với những biến đổi khí hậu do con người đã gây ra, ngay cả mô hình thời gian của gió mùa cũng bị thay đổi. Ví dụ, điều này đã gây ra hiện tượng băng tan trên cao nguyên Tây Tạng, dẫn đến lũ lụt gần đây ở Pakistan. [9]

    Hầu hết lượng mưa mà một quốc gia nhận được đều được tạo ra bên ngoài lãnh thổ của quốc gia đó. Nguồn nước ngọt sẵn có cuối cùng phụ thuộc vào lượng mưa, từ đó phụ thuộc vào sự ổn định của đại dương, sự tồn tại của các khu rừng nguyên sinh và hệ hệ sinh thái lành mạnh ở các quốc gia và khu vực khác. Mọi thứ đều có liên quan với nhau.

    Chúng ta đang trải qua những thay đổi căn nguyên về môi trường. Hạn hán và lũ lụt đang xảy ra trên khắp năm châu. Trước đây, nguồn cung cấp nước tương đối ổn định (trong giới hạn biến đổi tự nhiên), có thể dự đoán và quản lý được ở nhiều nơi trên thế giới. Ngày nay, nước ngày càng khan hiếm (thậm chí các tầng ngậm nước đang cạn kiệt) và có những biến đổi cực độ.

    Không cần phải nói, rằng ở nhiều khu vực nghèo trên thế giới, nước chưa bao giờ được xem là loại hàng hóa miễn phí. Đối với phần lớn dân số thế giới, đặc biệt là ở các khu vực khô cằn, nước luôn là mặt hàng khan hiếm, đắt tiền, mang tính chiến lược và do đó được quản trị cẩn trọng. Điểm mới trong những thập kỷ gần đây là sự gia tăng các vấn đề từ những khu vực bị khô cằn (nơi ngày càng trở nên cấp bách) đến những nơi khác ở nhiều quốc gia trên thế giới, nơi trước đây nước không phải là hàng hóa khan hiếm. Ngày nay, vì những nguyên do nêu trên, sự tác động mạnh mẽ đến các mô hình sản xuất và tiêu dùng của chúng ta, nước đang mang đặc tính của các hàng hóa khác trên toàn cầu, nghĩa là, sự khan hiếm nước tạo ra sự cạnh tranh giữa các cá nhân, cộng đồng và quốc gia. [10] Vì vậy, đây là sự căng thẳng giữa việc thực thi quyền tự do cá nhân và nhu cầu bảo vệ tài sản chung, và do đó là công ích. Nếu chúng ta xem xét các tầng ngậm nước ở khu vực cận Sahara hoặc ở biên giới Pakistan-Ấn Độ, chúng ta sẽ thấy thảm kịch rõ ràng về việc khai thác tài sản chung, [11] với việc mỗi cá nhân hoặc cộng đồng khai thác nước để đáp ứng nhu cầu riêng mình, tìm kiếm lợi ích quá mức. Theo cách này, nguồn nước dự trữ của nhân loại đang bị cạn kiệt, đến mức nguồn nước cũng cạn kiệt. Như một câu tục ngữ của người Châu Phi có câu: “Cái gì của chúng ta thì không phải là của tôi”.

    Vì tất cả những thách thức lớn về môi trường đều gắn liền với nước, nên chúng ta phải khẩn cấp thừa nhận rằng nước là một công ích thiết yếu cho lợi ích chung phổ quát. Chỉ khi đó, chúng ta mới có thể huy động được hành động chung và xác định các thỏa thuận mới đặt công bằng và công lý làm trọng tâm trong ứng phó của chúng ta trước vấn đề làm thế nào để phát triển trong một thế giới khan hiếm nước, có nhiệt độ cao hơn, và đường bờ biển, hệ thống sông và tầng ngậm nước bị thay đổi.

    Nhưng để bảo vệ lợi ích chung toàn cầu này, cả luật pháp và kinh tế đều cần phải được điều chỉnh. Cuộc khủng hoảng nước mang tính toàn cầu nên không thể bỏ qua và chỉ có thể được giải quyết bằng tư duy kinh tế mới và luật mới nhằm chuyển đổi việc quản trị hành vi sinh thái thông qua các nỗ lực giáo dục. [12] Không cộng đồng nào có thể phát triển mạnh nếu thiếu nguồn cung cấp nước sạch an toàn. Nếu không quản lý nước hợp lý, hầu hết các Mục tiêu Phát triển Bền vững (SDG) sẽ không thể đạt được. Chúng ta đối mặt với nhiệm vụ nặng nề trong việc ứng phó với thách thức toàn cầu do hành vi của chính chúng ta đã tạo ra.

    Làm thế nào để giải quyết vấn đề nước?

    Thế giới tuyên bố rằng nếu ai giải quyết được vấn đề về nước đều xứng đáng nhận được hai giải thưởng Nobel: một về kinh tế và một cho hòa bình. [13]

    Những thách thức liên quan đến nước đang nhận được sự quan tâm từ cộng đồng quốc tế, giới kinh doanh, các nhà khoa học, giáo dục và tổ chức nhân đạo. Hội nghị Nước của Liên Hợp Quốc được tổ chức tại Thành phố New York, từ ngày 22 đến ngày 24 tháng 3 năm 2023. [14] Đây là hội nghị thế giới đầu tiên về nước trong gần nửa thế kỷ. Nhưng không mang lại kết quả vì đã không đạt được cam kết ràng buộc nào và miền Nam toàn cầu ít được đại diện. Tuy nhiên, hội nghị đã nhận ra rằng cần phải thiết lập kế hoạch nước cho từng quốc gia và kế hoạch nước khu vực cho từng lưu vực và tầng chứa nước chung, cũng như cơ chế tài chính quốc tế để bảo vệ trữ lượng nước. [15] Nhiều tham dự viên hội nghị bày tỏ niềm tin rằng nước nên được coi là lợi ích chung toàn cầu, liên quan đến cuộc khủng hoảng khí hậu, lương thực, năng lượng và an ninh quốc gia.

    “Nước qui tụ toàn thể nhân loại,” António Guterres, Tổng thư ký LHQ kết luận. Nước là một hàng hoá thiết yếu cho cuộc sống và cho mỗi chúng ta. Mọi người đều có quyền trong mọi hoàn cảnh - kể cả chiến tranh - được tiếp cận với nước sạch, và uống được. Nếu quyền này không được hưởng thì các quyền khác, chẳng hạn như quyền sống và quyền có mức sống lành mạnh và tươm tất, cũng không thể được thực hiện. Với mức sử dụng nước hiện tại, việc tiếp cận phổ cập nước sạch và vệ sinh sẽ không thể đạt được vào năm 2030, như Mục tiêu Phát triển Bền vững đã hình dung. Nhưng còn hơn thế nữa: nước là nguồn gốc của xung đột và là vũ khí được sử dụng trong xung đột.

    Gia tăng xung đột liên quan đến nước

    Nước trên Trái đất phân bố không đều. Có vùng ẩm ướt và vùng khô, cũng như các mùa mưa và mùa khô. Những sự đa dạng này, trong một thế giới dân số không đồng đều, dẫn đến sự cạnh tranh và tranh chấp về quyền tiếp cận và kiểm soát nguồn nước. Trong những năm gần đây, khi nguồn cung cấp nước ngày càng cạn kiệt, các xung đột liên quan đến nước đã gia tăng đáng kể. [16] Bạo lực liên quan đến việc tiếp cận nguồn nước đã có lịch sử lâu dài. Ai không nhớ cảnh đầu tiên trong phim 2001: A Space Odyssey ? Hai gia tộc thời tiền sử tranh giành quyền sở hữu một hố nước và một trong số họ phát hiện ra cách sử dụng xương đùi của một bộ xương làm vũ khí. Cuộc chiến tranh nước đầu tiên được biết đến diễn ra cách đây gần 4.500 năm giữa các thành phố cổ Umma và Lagash ở Lưỡng Hà về việc tiếp cận nguồn nước từ sông Tigris cho mục đích tưới tiêu.

    Liên Hợp Quốc chính thức tuyên bố quyền con người đối với nước vào năm 2010; Luật nhân đạo quốc tế yêu cầu bảo vệ cơ sở hạ tầng nước dân sự trong các cuộc xung đột và cấm sử dụng nước làm vũ khí chiến tranh. Tuy nhiên, sự gia tăng kỷ lục về bạo lực liên quan đến nước cho chúng ta thấy chúng ta còn chưa tôn trọng những quyền này đến mức nào. Pedro Arrojo-Agudo, Báo cáo viên đặc biệt của Liên hợp quốc về nhân quyền đối với nước uống an toàn và vệ sinh, gần đây cho biết: “Những kẻ tấn công hệ thống nước dân sự và sử dụng nước làm vũ khí đều phạm tội ác chiến tranh. Các chính trị gia và lãnh đạo quân sự phải thường xuyên được nhắc nhở về những luật này và các hành vi vi phạm phải bị truy tố.” [17]

    Ngày nay, bốn tỷ người sống ở các lưu vực sông ngang qua ranh giới chính trị, nhưng hơn một nửa lưu vực sông quốc tế trên thế giới không bị quản trị bởi các thỏa thuận chia sẻ quốc tế hoặc các ủy ban lưu vực sông chung. Trong những tháng gần đây, Iran và Afghanistan đã xảy ra xung đột trên vùng biển sông Helmand mà cả hai bên cùng chia sẻ, cả hai bên đều bị thiệt hại. Trung Quốc và Ấn Độ đang có xung đột căng thẳng ở dãy Himalaya. [18] Nông dân Ấn Độ đã biểu tình vì tình trạng thiếu nước do hạn hán và việc chuyển nước từ trang trại sang thành phố. Ở châu Phi cận Sahara, những người chăn nuôi truyền thống đang xung đột với nông dân về khả năng tiếp cận nguồn đất và nước khan hiếm.

    Cần có những nỗ lực ngoại giao để giải quyết các tranh chấp quốc tế về lợi ích chung này. “Có 286 lưu vực sông (và hồ) xuyên biên giới trên thế giới, liên quan đến 148 quốc gia. Chỉ có 84 lưu vực trong số này có cơ quan quản lý nước chung và nhiều cơ quan trong số này được coi là quản trị không hiệu quả. Số lượng tầng ngậm nước dùng chung không có cơ quan quản lý chung – hơn 400 – cao hơn đáng kể.” [19] Nước có thể và nên là nhân tố của hợp tác và hòa bình, chứ không phải của xung đột và chiến tranh. [20]

    Ai có thể và ai nên cung cấp nước?
    Tại nhiều xã hội, việc cung cấp nước uống, sử dụng trong nông nghiệp và công nghiệp được coi là nhiệm vụ cơ bản của nhà nước và nước phải được cung cấp miễn phí hoặc được trợ giá. Lập luận đạo đức chống lại việc tăng giá nước cũng được củng cố bởi sự thừa nhận vai trò không thể thiếu của nước trong việc duy trì sức khỏe và hạnh phúc của con người.

    Sự xác định việc cung cấp nước cho con người như một dịch vụ công cộng là hoàn toàn phù hợp với việc coi nguồn tài nguyên này là một thành phần thiết yếu của lợi ích chung. Đồng thời, nước cũng có thể được coi là một hàng hóa kinh tế. Quan điểm này được thể hiện trong Tuyên bố Dublin về Nước và Phát triển bền vững năm 1992: “Nước có giá trị kinh tế trong tất cả các mục đích sử dụng mang tính cạnh tranh và cần được công nhận là hàng hóa kinh tế. Trong nguyên tắc này, điều quan trọng trước tiên phải được thừa nhận về quyền cơ bản của con người là được tiếp cận với nước sạch và vệ sinh ở mức giá phải chăng. Việc không nhận ra giá trị kinh tế của nước trong quá khứ đã dẫn đến việc sử dụng tài nguyên này một cách lãng phí và gây tổn hại đến môi trường. Cách thức quản trị nước như một lợi ích kinh tế là quan trọng nhằm đạt được sự sử dụng hiệu quả và công bằng, cũng như khuyến khích việc bảo tồn và bảo vệ tài nguyên nước.” [21]

    Theo một nghĩa nào đó, tuyên bố này đã tôn vinh sự tiến bộ của khu vực tư nhân. Vào những năm 1980, làn gió của chủ nghĩa tân tự do đã thổi mạnh, cho rằng các tiện ích công cộng bị quản trị kém, trong tình trạng không tốt và chính phủ cũng không đủ khả năng để mở rộng các tiện ích công cộng này. Các tổ chức cho vay quốc tế lớn đang nỗ lực khuyến khích các quốc gia, đang gặp khó khăn về kinh tế, tư nhân hóa. Các quốc gia đa dạng như Vương quốc Anh của Margaret Thatcher và Chile của Augusto Pinochet đã tư nhân hóa việc phân phối nước vì lợi ích của doanh nghiệp tư nhân. Các công ty tư nhân cung cấp nước cho người dân Paris. Vốn tư nhân đã tham gia vào việc phân phối nước của Berlin.

    Một số hoạt động tư nhân hóa đã không được khuyến khích: nếu vào năm 2010, sau 25 năm, Thành phố Paris đã quyết định không gia hạn các nhượng bộ cho khu vực tư nhân, thì không thể nói rằng do khu vực tư nhân hoạt động đặc biệt kém, cũng không thể nói người dân Paris phải chịu mức giá hoặc chất lượng đáng kể từ khi thay đổi hình thức từ quản trị tư nhân sang quản trị công. Tuy nhiên, các hoạt động khác đã diễn ra rất sai lầm. Trường hợp điển hình là Bolivia. Cái gọi là “chiến tranh về nước” bắt nguồn từ năm 2000 do thuế quan tăng đột ngột trong quá trình chuyển đổi từ quản trị công sang quản trị tư nhân ở khu vực Cochabamba. Vào thời điểm đó, việc tập đoàn tư nhân quyết định tăng tài trợ cho cơ sở hạ tầng mới đã khiến người dân khó chịu và dẫn đến các cuộc biểu tình lớn. Sau vài tháng căng thẳng, việc tư nhân hóa đã bị hủy bỏ. Ngược lại, những thăng trầm của Jakarta kéo dài trong nhiều năm, nơi hai nhượng bộ được đàm phán vào cuối những năm 1990 đã bị thu hồi trong các phán quyết năm 2015 (tòa án địa phương) và 2017 (Tòa án tối cao Indonesia).

    Xã hội dân sự thường đấu tranh chống lại những hoạt động tư nhân hóa như vậy, tố cáo tầm nhìn hám lợi của họ và nói rõ rằng quyền con người về nước uống không tương thích với việc theo đuổi lợi nhuận. [22] Ví dụ, ở Ý, một cuộc trưng cầu dân ý về việc bãi bỏ tư nhân hoá đã được cổ võ nhằm bác bỏ nghĩa vụ của chính quyền địa phương trong việc tổ chức đấu thầu rộng rãi cho cả khu vực công và tư nhân để cấp các dịch vụ về nước được nhượng quyền hoặc thiết lập quan hệ đối tác công-tư ( PPP). Cuộc trưng cầu dân ý đó, được tổ chức vào năm 2011, có hiệu lực vì đã đạt được số đại biểu cần thiết. Đa số cử tri phản đối nghĩa vụ như vậy - một lựa chọn được coi là phản đối tư nhân hóa. [23] Chỉ giới hạn ở các công ty có quy mô vừa (không tính đến các nhà phân phối không chính thức hoặc mạng lưới nhỏ, ví dụ, có thể được thành lập cho một làng duy nhất và được quản trị bởi một hợp tác xã nhỏ), cần làm rõ rằng có nhiều sự kết hợp khác nhau của PPP. Liên đoàn quốc tế các nhà khai thác nước tư nhân (Aquafed) trích dẫn ước tính rằng 10% dân số thế giới nhận nước từ một tổ chức khai thác nước tư nhân chính thức và ước tính rằng có khoảng 10.000 PPP, đa dạng trong các điều khoản cũng như thời hạn.

    Điều đó cho thấy, vấn đề về các chủ thể tư nhân (nhà điều hành và nhà đầu tư) đang gây tranh cãi. Đầu tiên, sự tham gia của các chủ thể như các công ty đa quốc gia có quan hệ với các ngân hàng, quỹ đầu tư hoặc quỹ hưu trí, với mục tiêu trước tiên của họ là tạo ra lợi nhuận chứ không phải việc cung cấp nước, là điều khó hiểu. Các vấn đề về “giá hợp lý” và “lợi nhuận hợp lý”, tăng thuế (trong tình trạng độc quyền cụ thể) và khả năng tiếp cận nguồn nước của những người nghèo nhất hoặc ở các khu vực miền núi và làng mạc biệt lập là rất quan trọng và cần được nghiên cứu sâu hơn.

    Hơn nữa, nếu một tập đoàn đa quốc gia quản trị nước cho một đô thị đạt được mức lợi nhuận có thể tái đầu tư một phần ra nước ngoài, có lẽ sẽ cạnh tranh hơn trong đấu thầu cho các dịch vụ khác hoặc chi thưởng hào phóng cho các cổ đông, có nghĩa là tập đoàn đó đã không cung cấp nước cho người dân với ở mức giá thấp nhất có thể. [24] Vì đây là hàng hóa cơ bản cho cuộc sống nên hình thức trục lợi này tự nó có vẻ đáng trách, đặc biệt nếu lợi nhuận được tạo ra thông qua việc “cắt giảm chi tiêu” hơn là trên cơ sở hiệu quả gia tăng.

    Cuối cùng, hãy nhớ đến nguy cơ tham nhũng. Trong một số trường hợp, một tập đoàn đa quốc gia có thể khẳng định lý do và lợi ích của mình khác biệt với chính phủ của một nước nghèo. Tuy vậy, tham nhũng không phải là đặc quyền của khu vực tư nhân. [25]

    Vì vậy, điều cần thiết là bất kỳ sự tham gia nào của tư nhân trong lĩnh vực nước đều cần có những quy định rõ ràng và minh bạch để bảo vệ lợi ích chung của toàn xã hội. Những nhà khai thác này không thể hoạt động trừ khi chịu trách nhiệm trước công chúng. Thật vậy, chính phủ không thể kiềm chế việc thúc đẩy quyền con người đối với nước sạch và do đó nên giám sát việc thực hiện dần quyền này, đồng thời điều này cũng bao hàm việc kiểm soát các dự án PPP. Mọi sự độc quyền đều cần có quy định.

    Hướng tới sự hợp tác cấp bách và đích thực

    Chúng ta phải đối mặt với hai chiều kích quản trị nước: một bên muốn duy trì việc quản trị công và bên còn lại muốn chuyển theo qui tắc thị trường; có những người tin rằng không thể giao quyền quản trị lợi ích chung này cho tư nhân, và cũng có những người tin rằng quản trị công chắc chắn liên quan đến sự lãng phí, kém hiệu quả và thậm chí là tham nhũng.

    Vậy không có lựa chọn thứ ba sao? Vâng, cái liên quan đến các doanh nghiệp xã hội. Không mong đợi lợi nhuận lớn từ khoản đầu tư của mình, họ sử dụng kỹ năng quản trị mình có để quản lý nguồn lực công. Bằng cách này, họ đã tạo ra một hiệp ước giữa thị trường, khu vực công và xã hội dân sự với tư cách là ba đối tác bình đẳng. Đây không phải là những công ty phi lợi nhuận mà là những công ty có lợi nhuận thấp . Sự hợp tác xã hội này phải được khuyến khích bằng luật pháp phù hợp. Doanh nghiệp xã hội – dù là hợp tác xã hay doanh nghiệp cộng đồng hay doanh nghiệp công – là giải pháp khả thi để quản trị hàng hóa chung như nước tại cấp địa phương, đất công, năng lượng và môi trường. Đây là một giải pháp hoàn toàn phù hợp với nguyên tắc bổ trợ. [26]

    Đề xuất của Mariana Mazzucato, đồng chủ tịch Ủy ban Thế giới về Kinh tế Nước, phù hợp với định hướng này: “Luật pháp và kinh tế phải được định hướng lại để đảm bảo khả năng tiếp cận phổ cập với nước sạch, điều kiện vệ sinh và vệ sinh, đồng thời xây dựng các hệ thống thực phẩm phục hồi và bền vững hơn. Các cơ chế khuyến khích phải thay đổi để khu vực tư nhân có thể đóng vai trò của mình trong việc cung cấp khả năng tiếp cận công nghệ và đổi mới cho cả nước giàu và nước nghèo. Điều này sẽ đòi hỏi nguồn tài chính dài hạn và các cơ chế mới để điều chỉnh sự hợp tác giữa khu vực công và tư nhân.” [27] Ngược lại, Báo cáo Phát triển Nước Thế giới năm 2023 của Liên Hợp Quốc chỉ ra rằng sự hợp tác là điều cần thiết để đạt được tất cả các mục tiêu và chỉ tiêu liên quan đến nước và cần có cách tiếp cận toàn xã hội, xây dựng dựa trên quy định và liên minh công-tư. [28]

    Chị nước: tầm nhìn Học thuyết Xã hội của Giáo hội

    Thánh Gioan Phaolô II, nhà đổi mới vĩ đại Học thuyết Xã hội của Giáo hội, luôn bày tỏ niềm xác tín của mình về giá trị và khả năng của các nguyên tắc trong việc soi sáng các vấn đề xã hội khác nhau đã xảy ra trong lịch sử. Điều này trở nên đặc biệt rõ ràng khi huấn quyền xã hội đề cập đến các chiều kích khác nhau của vấn đề nước. Chúng tôi sẽ phác thảo bên dưới ứng dụng của nước, được thể hiện dần trong các tài liệu. [29]

    Trước hết, “đích đến phổ quát” [30] của món quà quý giá và không thể thay thế này của Thiên Chúa phải được tôn trọng; do đó, phải đạt được khả năng tiếp cận phổ quát và thường xuyên với đủ lượng nước uống mà không có sự phân biệt đối xử, đảm bảo rằng nước thải không gây ra mối đe dọa cho sức khỏe. Do đó, điều cần thiết là ưu tiên mạng sống của tất cả mọi người – như Đức Thánh Cha Phanxicô đã giải thích gần đây trong một bài phát biểu với FAO – và tránh việc một số người chiếm đoạt hàng hóa hoặc để một hàng hóa bị coi là hàng hóa để đầu cơ. [31] Nước không chỉ là một loại hàng hóa bị bỏ mặc bởi thị trường tự do, [32] và cơ sở hạ tầng hoặc đầu tư không nên được quy hoạch theo tiêu chí duy nhất là tối đa hóa lợi nhuận. [33] “Tòa Thánh chưa khẳng định rằng các công ty tư nhân (lớn hay nhỏ) không được đóng bất kỳ vai trò nào trong lĩnh vực nước” [34] – nguyên tắc bổ trợ – tuy nhiên “cơ quan công quyền vẫn giữ chức năng quản lý và giám sát,” [35] và phải “đảm bảo người dân tiếp cận công lý nếu quyền [tiếp cận nước uống và/hoặc vệ sinh] của họ bị vi phạm.” [36]

    Các vấn đề ưu tiên cần được xác định. Học thuyết Xã hội của Giáo hội tuyên bố rằng nhu cầu của những người nghèo nhất hoặc dễ bị tổn thương nhất phải là mối quan tâm đầu tiên. Phương án ưu đãi dành cho người nghèo này có thể được áp dụng trong lĩnh vực nước. Cứ 80 giây lại có một trẻ em dưới 5 tuổi chết vì căn bệnh do nước bị ô nhiễm gây ra và hàng trăm triệu người lớn lên với tình trạng thiếu hụt về phát triển và triển vọng cuộc sống bị giảm sút. Hãy nghĩ đến những người tị nạn, những người bị cầm tù, những người dân thường đau khổ trong các vùng chiến tranh nơi cơ sở hạ tầng nước bị hư hại bởi những kẻ hiếu chiến, những người không thể trả các hóa đơn tiện ích và những người sống trong các khu vực được cung cấp bởi các nhà khai thác nước không chính thức áp đặt giá cao. Sự liên đới giữa các thế hệ phải được đảm bảo. Những người quản lý, gây ô nhiễm và tiêu thụ nước cũng phải quan tâm đến thế giới mà họ sẽ bỏ lại phía sau; đó là vấn đề công lý.

    Sau cùng, cần phải đóng góp vào việc truyền bá một nền văn hóa có hiểu biết. Vì “vấn đề nước một phần là vấn đề giáo dục và văn hóa,” [37] cần phải gây ảnh hưởng đến sự hiểu biết về “chị nước” và hành vi, để vừa tôn trọng tài nguyên, vừa để thúc đẩy sự tham gia của người dân. Chương cuối cùng của Laudato Si' nhấn mạnh đến văn hóa, giáo dục và tâm linh, những nhân tố then chốt để nước được chiêm ngưỡng, được biết đến và được bảo tồn. Tất cả những điều này phù hợp với Tông huấn Laudate Deum , vốn khuyến khích những nhu cầu đang nổi lên từ bên dưới, nhờ những người dám dấn thân ở các quốc gia khác nhau cùng đồng hành với nhau, nhờ đó cũng thành công trong việc gây áp lực lên những người nắm quyền lực. [38]

    Phần kết luận

    Các phân tử được hình thành bởi hydro và oxy – nước – rất cần thiết cho chúng ta; nước cần thiết để uống, nấu ăn, giặt giũ, để sản xuất nhiều loại sản phẩm từ giấy đến quần áo và thực phẩm. Leonardo Da Vinci gọi nước là động lực của mọi tự nhiên.

    Nghèo đói nghe có mùi khó chịu; không thể khác được, nhưng, nếu có điều gì quan trọng liên quan đến nó, thì đó là nó bẫy bạn, bởi vì trong cảnh nghèo khó, bạn không thể sản xuất ra thứ bạn cần, bởi vì bạn không có gì cả; bạn thậm chí không có nước. Sự khan hiếm nước là một thách thức quan trọng cho sự phát triển bền vững ngày nay. Biến đổi khí hậu đang làm thay đổi nguồn cung cấp và khả năng tiếp cận công ích vốn đã được phân bổ không đồng đều ở các khu vực khác nhau trên hành tinh. Nó gây ra hạn hán và lũ lụt. Với mỗi mức độ tăng nhiệt độ, 7% dân số thế giới sẽ bị giảm ít nhất 20% nguồn nước ngọt. Cần phải khẩn cấp nỗ lực để làm chậm và ngăn chặn sự gián đoạn khí hậu làm gia tăng căng thẳng về nước. Việc quản trị lợi ích phổ quát ngày càng khan hiếm này một cách hợp lý và công bằng là điều cần thiết. Đảm bảo rằng nước đến được với mọi người theo nhu cầu là thách thức căn bản của thời đại chúng ta. Giá trị của nước không được đánh giá cao cho đến khi nguồn cung của nó cạn kiệt. Nước không màu, không mùi và không vị, nhưng không có gì dễ chịu hơn việc uống một cốc nước khi khát. Không phải vô cớ mà chúng ta đọc được những lời này của Chúa Giêsu trong Tin Mừng: “Nếu ai cho một trong những đứa trẻ này, dù chỉ một cốc nước lạnh, thì Thầy bảo thật các con, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu” ( Mt 10:42; x. Mc 9:41).
    ________________________________________
    DOI: https://doi.org/10.32009/22072446.0324.9
    [1] . Xem Tổ chức Khí tượng Thế giới, “Báo cáo Hiện trạng Tài nguyên Nước Toàn cầu thông báo về sông ngòi, trữ lượng nước trên đất liền và sông băng”, ngày 29 tháng 11 năm 2022 (public-old.wmo.int/en/media/press-release/state-of-global- tài nguyên nước-báo cáo-thông tin-đất-nước-lưu trữ-và).
    [2] . L. Gudmundsson và cộng sự, “Các xu hướng được quan sát trên toàn cầu về dòng chảy trung bình và cực đoan do biến đổi khí hậu”, trong Science , ngày 12 tháng 3 năm 2021, tập. 371, không. 6534, 1159-1162 (www.science.org/doi/10.1126/science.aba3996).
    [3] . WFP cho biết: “Bị ảnh hưởng bởi lũ lụt và hạn hán, 1/4 người dân Somali có nguy cơ bị đói ở mức 'khủng hoảng'”, trên Reuters ( www.reuters.com/world/africa/hit-by-floods-drought-quarter-somali -people-risk-crisis-level-hunger-wfp-2023-11-14), ngày 12 tháng 3 năm 2021; “La Somalia devastata dalle inondazioni, villaggi đến laghi: decine di vittime” (www.rainews.it/video/2023/11/la-somalia-devastata-dalle-inondazioni-villaggi-come-laghi-decine-di-vittime– 3aa4e692-2f22-4f6a-8e44-de88066fdd1b.html).
    [4] . Cf. L. Sands, “Lũ lụt ở Pakistan: Một phần ba đất nước chìm trong nước – Bộ trưởng”, trên BBC News (www.bbc.com/news/world-europe-62712301), ngày 30 tháng 8 năm 2022.
    [5] . Xem Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp, “Sự khan hiếm nước”, 2023 (www.fao.org/land-water/water/water-scarcity); S. Kuzma và cộng sự, “25 quốc gia, 1/4 dân số có nhà ở, đối mặt với căng thẳng cực kỳ cao về nước”, Viện Tài nguyên Thế giới, ngày 16 tháng 8 năm 2023 (www.wri.org/insights/highest-water-stressed-countries ); S. Laville, “Căng thẳng cực độ về nước mà các quốc gia nơi có 1/4 dân số thế giới phải đối mặt”, trên The Guardian (www.theguardian.com/environment/2023/aug/16/extreme-water-stress-faced-by-countries-home -đến một phần tư dân số thế giới), ngày 16 tháng 8 năm 2023.
    [6] . Xem “Báo cáo Phát triển Nước Thế giới của Liên Hợp Quốc năm 2023” (www.unwater.org/publications/un-world-water-development-report-2023).
    [7] . “5 lý do tại sao nước là vấn đề của phụ nữ”, trên tạp chí Concern Worldwide (www.concern.net/news/water-is-a-women-issue), ngày 7 tháng 3 năm 2022.
    [số 8] . “Mười nguyên nhân của cuộc khủng hoảng nước toàn cầu”, được quan tâm trên toàn thế giới (www.concernusa.org/new/globalwater-crisis-nguyên nhân), ngày 22 tháng 3 năm 2022.
    [9] . Cf. A. Rascoe, “Làm thế nào các sông băng tan chảy gây ra lũ lụt chết người ở Pakistan”, trong npr (www.npr.org/2022/09/04/1120952641/how-melting-glaciers- nguyên nhân-by-climate-change-led-to-to -floods-in-pakistan), ngày 4 tháng 9 năm 2022.
    [10] . Cf. L. Bruni, “Il caso dell'acqua. L'economia alle prese con i beni comuni”, in Nuova Umanità , no. 193, tháng 1-tháng 2 năm 2011, 47-59.
    [11] . Cf. G. Hardin, “Bi kịch của cộng đồng”, trong Khoa học , ngày 13 tháng 12 năm 1968, tập. 162, không. 3859, 1243-1248.
    [12] . Cf. M. Mazzucato và cộng sự, “Trasformare l'economia e la Government dell'acqua”, trong Project Syndicate (www.project-syndicate.org/commentary/new-kinh tế- and-governance-of-water-by-mariana-mazzucato -et-al-2022-09/italian), ngày 21 tháng 9 năm 2022.
    [13] . Cf. A. Dinar, Kinh tế tài nguyên nước: Cách tiếp cận toàn diện , Cambridge, Nhà xuất bản Đại học Cambridge, 2021; G. Boccaletti, “Theo đuổi an ninh nguồn nước”, trong Project Syndicate (http://tinyurl.com/4667wcjw), ngày 21 tháng 9 năm 2023.
    [14] . Xem “Hội nghị về Nước của Liên hợp quốc 2023”, New York, ngày 22-24 tháng 3 năm 2023 (sdgs.un.org/conferences/water2023).
    [15] . Cf. N. Lakhani – O. Milman, “Hội nghị về nước toàn cầu đầu tiên sau 50 năm mang lại hàng trăm cam kết, không kiểm tra”, trên The Guardian (www.theguardian.com/world/2023/mar/24/united-nations-water-conference -new-york-pledges), ngày 25 tháng 3 năm 2023.
    [16] . “Bạo lực về nước gia tăng trên toàn cầu theo dữ liệu mới từ Niên đại xung đột về nước của Viện Thái Bình Dương”, Viện Thái Bình Dương, ngày 15 tháng 11 năm 2023 (pacinst.org/announcement/violence-over-water-increases-globally-according-to-new-data- từ-Thái Bình Dương-viện-nước-xung đột-niên đại).
    [17] . “Báo cáo viên đặc biệt về quyền nước và vệ sinh”, LHQ (www.ohchr.org/en/special-procedures/sr-water-and-sanitation).
    [18] . “Trung Quốc thừa nhận mất 4 binh sĩ trong cuộc đụng độ biên giới Ấn Độ năm 2020”, trên Al-Jazeera.com/news/2021/2/19/china-admits-it-lost-four-soldiers-in-2020-india -border-clash), ngày 19 tháng 2 năm 2021.
    [19] . “Vấn đề sống còn”, tại Trung tâm nước Geneva (www.genevawaterhub.org/resource/matter-survival).
    [20] . Cf. P. Gleick, “Khi nước trở thành vũ khí chiến tranh, chúng ta phải tập trung vào hợp tác và hòa bình”, trên The Guardian (www.theguardian.com/environment/2023/nov/15/water-lat-violence-war-peace) , ngày 15 tháng 11 năm 2023; B. Chellaney, Nước, Hòa bình và Chiến tranh: Đối mặt với Khủng hoảng Nước Toàn cầu , Nhà xuất bản Lanham, Rowman & Littlefield, 2013.
    [21] . Tuyên bố Dublin về Nước và Phát triển bền vững (www.gdrc.org/uem/water/dublin-statement.html) được ký khi kết thúc Hội nghị Liên hợp quốc về Nước và Môi trường, tổ chức tại Dublin từ ngày 20 đến 31 tháng 1 năm 1992 , một cuộc họp kỹ thuật trước Hội nghị thượng đỉnh Liên hợp quốc về Môi trường và Phát triển (Unced), diễn ra tại Rio de Janeiro vào tháng 6 năm 1992.
    [22] . Cf. J. Vidal, “Tư nhân hóa nước: một thất bại trên toàn thế giới?” trên The Guardian (www.theguardian.com/global-development/2015/jan/30/water-privatisation-worldwide-failure-lagos-world-bank), ngày 30 tháng 1 năm 2015.
    [23] . X. T. Toniutti, “Trưng cầu dân ý: phiếu 'Có' trên 95% kết quả lịch sử, Một chiến thắng cho tất cả" trên la Repubblica (www.repubblica.it/politica/2011/06/13/news/referendum_la_giornata_dei_s_il_quorum_arriva_tra_le_polemiche-17645020), Ngày 13 tháng 6 năm 2011
    [24] . Cf. L. Heller, Báo cáo “Nhân quyền và việc tư nhân hóa các dịch vụ nước và vệ sinh”, ngày 12 tháng 7 năm 2020, Số 23 (www.ohchr.org/en/documents/thematic-reports/a75208-human-rights-and -tư nhân hóa-nước và vệ sinh-dịch vụ).
    [25] . Xem Mạng lưới liêm chính nước, Triển vọng toàn cầu về liêm chính nước , Berlin, 2016 (www.pseau.org/outils/ouvrages/win_water_integrity_global_outlook_2016.pdf).
    [26] . Xem L. Bruni, “Hãy tiết kiệm nước từ Nhà nước và thị trường”, trong il Sussidiario.net (www.ilsussidiario.net/news/referendum-12-13-giugno/2011/6/9/referendum-1- salviamo -l-water-da-state-e-mercato/184999).
    [27] . M. Mazzucato và cộng sự, “Chuyển đổi nền kinh tế và quản trị nước”, op. cit.
    [28] . Xem “Báo cáo Phát triển Nước Thế giới của Liên Hợp Quốc năm 2023: Quan hệ đối tác và Hợp tác vì Nước”, được xuất bản năm 2023 bởi Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên Hợp Quốc.
    [29] . Cf. Bộ Phục vụ Phát triển Con người Toàn diện, Aqua fons vitae. Định hướng về Nước: Biểu tượng Tiếng kêu của Người nghèo và Tiếng kêu của Trái đất , Thành phố Vatican, tháng 9 năm 2020. Những định hướng này đưa ra một cái nhìn cập nhật và rộng rãi về những đóng góp của huấn quyền giáo hoàng và chính sách ngoại giao của Tòa thánh về các vấn đề nước (www. humandevelopment.va/content/dam/sviluppoumano/documenti/Aqua%20fons%20vitae%20-%20IT.pdf).
    [30] . Xem Hội đồng Giáo hoàng về Công lý và Hòa bình, Tóm tắt Học thuyết Xã hội của Giáo hội , Thành Vatican, 2004, số 1. 171-178; Phanxicô, Thông điệp Laudato Si' (LS), số 1. 93.
    [31] . Cf. Francis, Thông điệp nhân Ngày Lương thực Thế giới 2023 , ngày 16 tháng 10 năm 2023. Chống đầu cơ và đưa nước vào thị trường tương lai, xem P. Arrojo-Agudo, Báo cáo “Rủi ro và tác động của việc hàng hóa hóa và tài chính hóa nước đối với quyền con người đối với nước uống an toàn và vệ sinh”, ngày 16 tháng 7 năm 2021, số 1. 42-64 (www.ohchr.org/en/documents/thematic-reports/a76159-risks-and-impacts-commodification-and-financialization-water).
    [32] . Cf. LS30.
    [33] . Cf. Hội đồng Giáo hoàng về Công lý và Hòa bình, Nước, một yếu tố thiết yếu cho cuộc sống . Thiết lập các giải pháp hiệu quả. Một bản cập nhật. Đóng góp của Tòa Thánh cho Diễn đàn Nước Thế giới VI , Marseille, Pháp, tháng 3 năm 2012.
    [34] . Bộ Phục vụ Phát triển Con người Toàn diện, Aqua fons vitae , op. cit. , 32.
    [35] . Hội đồng Giáo hoàng về Công lý và Hòa bình, Nước, một yếu tố thiết yếu cho cuộc sống… , op. cit. , III, 1a.
    [36] . Aqua fons sơ yếu lý lịch , op. cit. , 51.
    [37] . LS30.
    [38] . Cf. Phanxicô, Tông huấn Laudate Deum , số 1. 38.


    Source: https://www.laciviltacattolica.com/water-a-global-urgency/

    Chuyển ngữ: PTT – Caritas Việt Nam

    Bài viết liên quan